Đại học Hoa Sen – HSU

Quốc tế hóa đại học là xu thế không thể cưỡng lại

“Để phát triển chất lượng giáo dục đại học (ĐH), vấn đề là tạo môi trường thu hút được người giỏi nói chung chứ không chỉ người giỏi mang dòng máu Việt” – PGS Ngô Quang Hưng, ĐH bang New York ở Buffalo (Mỹ), nói với TTCT.”

PSG Ngô Quang Hưng. Ảnh: Thư Hiền

PGS Ngô Quang Hưng nhận xét: “Riêng trong lĩnh vực khoa học máy tính và công nghệ thông tin, tôi nhận thấy chất lượng giảng dạy của các trường ĐH lớn ở VN, bao gồm chất lượng sinh viên, nhìn chung cũng ổn.

Tuy nhiên có một vấn đề mà hẳn nhiều người đã nhìn thấy: giảng viên đi dạy quá nhiều! Có lẽ vì vậy họ không có cơ hội để tự hoàn thiện con người khoa học của bản thân, trong khi điều này cực kỳ quan trọng trong mọi ngành, đặc biệt là ngành khoa học máy tính.

Bản chất ngành này thay đổi quá nhanh nên nếu giảng viên phải dạy quá nhiều thì những bài giảng của họ sẽ không được cập nhật thường xuyên. Bản thân tôi ở Mỹ hiện nay chỉ dạy một lớp trong suốt một học kỳ. Còn ở đây mọi người dạy 3-5 lớp/học kỳ.

Dạy nhiều như thế thì ngay cả hoạt động dạy học trên lớp cho có chất lượng đã khó, chưa nói gì đến việc cải thiện được kỹ năng – cả kỹ năng chuyên môn và kỹ năng giảng dạy. Tôi nghĩ giảng viên ĐH của mình xuất phát điểm hoàn toàn có đủ khả năng để phát triển giáo dục ĐH, nhưng chúng ta không có điều kiện để tạo ra sự phát triển chất lượng cho lực lượng giảng viên trẻ”.

Cụ thể thì anh dạy bao nhiêu tiết trong một học kỳ?

Mỗi tuần tôi dạy 3 tiết, mỗi tiết 50 phút. Mỗi học kỳ có 15 tuần và một tuần thi cuối kỳ. Một năm học có 2 học kỳ. Còn ở VN, khối lượng công việc giảng dạy của các đồng nghiệp tôi thật kinh khủng! Họ nói phải dạy 700-800 tiết/học kỳ, có người lên đến cả nghìn tiết!

Các đồng nghiệp của tôi ở TP.HCM nói ngoài dạy ở trường mình, nhiều người còn dạy thêm ở trường khác. Họ cho biết muốn dạy thêm để có thêm thu nhập.

Không nên đánh giá nhà khoa học một cách hời hợt

Anh có nghĩ việc quá tải trong giảng dạy của giảng viên là một cách triệt tiêu sự phát triển của giáo dục ĐH chúng ta?

Gần như là vậy. Như GS Vũ Hà Văn đã trình bày tại hội thảo Đối thoại giáo dục mà nhóm chúng tôi do GS Ngô Bảo Châu chủ trì tổ chức ở TP.HCM đầu tháng 8-2014, công thức làm việc của một giáo sư ở Mỹ thường là 40-40-20. Những chỉ số này tương ứng với các phần việc giảng dạy – nghiên cứu khoa học – các công việc phục vụ sự phát triển của khoa mà mình làm việc.

Để đảm bảo giáo dục ĐH có chất lượng phải nghĩ đến việc giúp các giảng viên trẻ cải thiện năng lực, trình độ chuyên môn. Giải pháp quan trọng nhất là tạo cơ hội để họ được làm nghiên cứu. Làm nghiên cứu không nhất thiết phải như mong ước của xã hội, nghĩa là phải ra sản phẩm gì đó kiểu như Facebook thu hút 1,3 tỉ người dùng.

Chúng ta chỉ cần họ làm những công việc mà trong quá trình thực hiện họ có cơ hội để suy nghĩ một cách sâu sắc về chuyên môn của mình. Mỗi lần làm nghiên cứu dù có ứng dụng hay không đều là cơ hội để mỗi giảng viên cải thiện trình độ.

Cho dù hiện nay các trường ĐH đều có kinh phí dành cho việc nghiên cứu nhưng cách tổ chức nghiên cứu của ta hiện nay chưa tạo động lực để các giảng viên thực hiện hoạt động này một cách có chiều sâu. Trong khi đó, điều mà ai cũng biết là các nhà nghiên cứu phải có thời gian làm những nghiên cứu có chiều sâu thì mới cải thiện được khả năng khoa học của chính mình.

Vì sao, thưa anh?

– Hiện nay chúng ta đánh giá thành tích khoa học của những người làm khoa học bằng các tiêu chuẩn tương đối hời hợt.

Chẳng hạn như chúng ta đo bằng tổng số bài báo ISI. Thật ra tiêu chuẩn này là một bước tiến cực kỳ lớn so với trước đây, nhưng theo tôi thế chưa đủ, bởi đó chỉ là một thước đo hời hợt, thậm chí còn có tác hại tới các nghiên cứu có chiều sâu.

Chẳng hạn, khi nghiệm thu một đề tài, tiêu chuẩn được đưa ra là những người thực hiện phải có ba bài báo ISI. Một lẽ tự nhiên người ta sẽ chọn viết ba bài báo dễ nhất, miễn là đạt cái ngưỡng được đăng ISI. Trong khi đó mỗi một bài báo dễ, đồng nghĩa với nông, sẽ “ăn” vào thời gian cho mình làm một bài báo sâu.

Nếu nó cứ “ăn” liên tục như vậy mình sẽ không có thời gian để làm cái gì đó sâu sắc. Tôi cho rằng cơ chế đánh giá khả năng khoa học phải làm nhuyễn hơn như vậy nhiều và theo đó cần phải tốn rất nhiều thời gian để xem xét, đánh giá.

Rồi chúng ta còn đánh giá thành tích làm khoa học bằng số lượt được trích dẫn, trong khi đó chỉ số này thấp hay cao thể hiện ở cả hai cực: hoặc bài báo có chất lượng, hoặc có thể không.

Quy luật chung là cái nào khó thì ít người làm, ít người làm tự nhiên sẽ ít người trích dẫn. Tất nhiên những cái dỏm không ai thèm quan tâm cũng sẽ ít hoặc không có người trích dẫn. Vì thế như tôi nói ở trên, chỉ số lượt trích dẫn nằm ở hai cực.

Do đó mình chỉ nên xem đó là thước đo tham khảo chứ không phải là chỉ số duy nhất để đánh giá chất lượng một bài nghiên cứu khoa học.

Vậy theo anh phải “nhuyễn” như thế nào trong cơ chế đánh giá năng lực nhà khoa học để khích lệ họ trong việc dành thời gian và tâm trí cho những công trình có chiều sâu?

– Nếu phải tóm tắt trong một câu thì tôi chỉ có thể nói thế này: các giảng viên ở Mỹ đạt được sự thăng tiến trong nghề nghiệp khi mà nhìn chung họ được đánh giá tốt từ các đồng nghiệp. Không phải là đồng nghiệp trong một khoa mà là đồng nghiệp ở khắp nơi trên thế giới.

Ví dụ trong hồ sơ xét thăng cấp giáo sư của một giảng viên sẽ có khoảng 8-10 thư nhận xét của những giáo sư đầu ngành trong chuyên ngành hẹp của người được xét. Những giáo sư này không phải do bản thân ứng viên đề xuất.

Bản thân ứng viên không biết những người được hỏi là ai. Khoa sẽ lựa chọn để gửi thư tới những giáo sư đầu ngành, hỏi anh có biết ứng viên này cũng như những công trình của anh ta không, anh đánh giá giá trị công trình đó thế nào? Khi công bố, các nhận xét sẽ được để khuyết danh để các đánh giá có tính độc lập.

……………………………..

>> Xem thêm chi tiết bài viết

Theo Thư Hiên
(Nguồn: Tuổi Trẻ, ngày 02/03/2015)

Facebook Youtube Tiktok Zalo